skip to main |
skip to sidebar
Chuyến giải cứu phi công Hoa Kỳ lần thứ III
Chuyến giải cứu phi công Hoa Kỳ lần thứ III tại Quốc Lộ 9, Quảng Trị, Tháng Tư, 1972 (Mùa Hè Ðỏ Lửa)
Monday, July 23, 2007
(Ðể tưởng nhớ về các chiến hữu đang sống lây lất cùng cực trên quê hương thân yêu)
LTG.- Thời gian đã trôi qua trên ba mươi năm nên trí nhớ phần nào mai một theo tuổi tác. Bài hồi ký được viết bằng trí nhớ và với chứng kiến của một số bạn bè trong một cuộc góp ý. Ngoài cố vấn Tom Norris UDT Seal ra, các nhân viên toán Biệt Hải tham dự trong chuyến “BAT- 21” hiện tất cả còn sống: Một ở Việt Nam, một ở Úc Châu và ba tại Hoa Kỳ, kể cả tác giả. Tuy nhiên, vấn đề thời gian trong các đoạn viết không được chính xác lắm, mong các bạn tham gia trong chuyến sẵn lòng tha thứ và giúp bổ khuyết. Chúng tôi hi vọng các chiến hữu đại đội thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh ở tiền đồn, những người đã góp phần và chứng kiến công tác Biệt Hải giải cứu phi công Hoa Kỳ tại sông Hiếu Giang thuộc cực Bắc Cam Lộ, Quảng Trị Tháng Tư năm 1972 sẽ đọc được bài này. Và không quên cám ơn huynh trưởng Trần Ðỗ Cẩm giúp cung cấp một số tài liệu để nội dung phong phú, chính xác hơn.
Phong Trần
(Hồi ký)
Trên bàn vài đĩa mồi nóng hổi đang bốc khói tỏa mùi thơm ngào ngạt bay tận ngoài ngõ đặt cạnh một lít rượu đế trong chai đã vơi gần hết hai phần và một cái cốc nhỏ dùng rót rượu uống chung. Chứng tỏ nãy giờ mọi người có mặt quanh bàn chuyền tay uống khá nhiều đợt.
Một buổi sáng Chúa Nhật thường lệ chúng tôi từ Trại 9 Blackrock nổi hứng rủ nhau về họp tại nhà Nguyễn Châu cả thảy năm đứa. Ngoài tôi và Châu, ba tên còn lại thuộc đám bạn bè thân quen hiện đang phục vụ trong các toán Biệt Hải.
Vào các ngày cuối tuần hầu như chúng tôi đều được rảnh rỗi, trừ trường hợp toán lên phiên trực hay đi công tác mà thôi. Chúng tôi có thói quen thường rủ nhau về nhà anh chị Nguyễn Châu tụ họp như thông lệ của những thằng độc thân chúng tôi. Ðặc biệt, Châu có biệt tài chế biến đồ nhậu không thua kém hàng quán là bao nên càng hấp dẫn. Xét về tuổi tác, Châu lớn hơn tất cả và có nhiều năm thâm niên hoạt động công tác xâm nhập (bắt đầu từ năm 1963), cộng thêm bản tính hiền lành điềm đạm. Vợ con anh rất quí bạn của chồng nên mỗi khi chúng tôi có dịp lui tới là gia đình vui vẻ thân mật. Tuy mọi người không hoạt động chung toán nhưng tất cả hạp tính tình nên thích thú mỗi lần có dịp họp mặt tại nhà anh chị Nguyễn Châu.
Còn nhớ, ngày 8 Tháng Tư năm 19 72 lúc 11 giờ trưa Chúa Nhật, bất chợt một chiếc xe Jeep do tài xế Hạ Sĩ Nhất Tư từ Bộ Chỉ Huy chạy tới đột nhiên thắng lại đậu ngay trước cổng nhà Nguyễn Châu. Chúng tôi nhìn ra thấy tài xế lật đật xuống xe với dáng bộ khẩn cấp vội vã đi vào, trong khi cả bọn đùa giỡn chuyện trò những mẩu chuyện phiếm lượm lặt kể cho nhau nghe qua hơi men chếch choáng, đột nhiên thấy sự xuất hiện của Tư làm không khí cuộc vui bỗng nhiên khựng lại. Mọi người lầm tưởng hôm nay Tư cũng lang thang tìm vui như bọn tôi nên lái xe nhập bọn giải khuây cuối tuần.
Trong số anh em có đứa nhanh chóng kéo ghế mời ngồi nhưng Tư vội vàng từ chối và tiến tới cạnh tôi và Châu cho biết được lệnh lái xe về đây gọi tôi và Châu phải tới trình diện gấp Bộ Chỉ Huy để nhận công tác ngay buổi chiều nay. Chính anh sẽ chở cả hai chúng tôi tới. Nghe xong lệnh mọi người bàng hoàng.
Riêng tôi vì đang lưu luyến cuộc vui nên tỏ thái độ bất mãn vội lên tiếng chửi thề và tiếp: - Không hiểu đi đâu gấp thế? Hôm qua tao có mặt nguyên ngày trong trại có nghe lệnh lạc gì đâu?
Mặc dầu vậy, tôi và Châu cùng anh em trong bàn vội đứng dậy nâng ly cuối cùng trước khi chia tay. Có những ý nghĩ vẩn vơ thoáng qua biết đâu đây là lần (..?)khiến lòng hồi hộp lo âu. Trước đây tôi từng chứng kiến bạn bè, sau buổi chia tay thế nầy trước sau lần lượt không ngày trở lại. Nghĩ thân phận của người lính trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức nguy hiểm hồi hộp, đặc biệt đối với những thằng đi toán chúng tôi “buổi chiều thấy còn, nhưng đêm đã khuất ” nào ai biết được!
Trong tình cảm của Nguyễn Châu cũng ít nhiều bịn rịn vợ con. Dẫu gì anh cũng tìm mọi cách trấn an gia đình giữa lúc bạn bè sum họp vui vẻ tại nhà. Thử hỏi người vợ nào yên lòng khi thấy người chồng thân yêu của mình ra đi đột xuất giữa thời chinh chiến. Riêng tôi thân phận độc thân nên chẳng vương vấn điều gì! Thế rồi phút giây bịn rịn của Châu với gia đình qua mau, hai đứa tôi ngoan ngoãn như những trẻ thơ vội nối gót theo chân của người tài xế ra xe rồi cả hai leo lên ngồi gọn ở hàng ghế sau.
Con đường từ nhà Châu đến kho đạn Yên Thế chỉ độ hơn một cây số. Trên mặt đường đầy sỏi đá lổn nhổn lại nhiều vũng nước nhưng tài xế với gương mặt lạnh lùng gia tăng tốc độ như để cố bắt kịp thời gian giúp chúng tôi đến trình diện đúng giờ khiến chiếc xe chòng chành qua lại chồm tới phía trước một cách miễn cưỡng như con ngựa chứng.
Khi xe chuẩn bị băng ngang qua cổng Trại Yên Thế (kho đạn) người tài xế vội vàng vặn hết tay lái rẽ sang hướng trái, điều khiển chiếc Jeep nhẹ nhàng phóng trên đường tráng nhựa thẳng vào Bộ Chỉ Huy Trại 9 Blackroc.
Tôi rất thắc mắc từ lúc Hạ Sĩ Nhất Tư cho biết nên xoay qua phía Châu hỏi nhỏ: - Anh có biết công tác hôm nay thuộc loại nào không? Giữa lúc tiếng động cơ chiếc xe đang hồi gầm thét cộng thêm tiếng gió ồn ào đập vào thành cửa theo vận tốc của chiếc Jeep trên đà phóng tới nhưng vẫn nghe rõ mồn một từng lời do Châu thuật lại từ đầu câu chuyện:
Cách đây mấy ngày trong đêm tổ chức mãn khóa 1/72 Biệt Hải ra trường ở Câu Lạc Bộ Camp Fay, khi tiệc nửa chừng có lẽ quá vui tao thấy Ðại Úy Thọ đứng giữa anh em nói lớn: “Lần nầy thằng nào muốn chết cứ việc theo tao, ngoại trừ thằng Châu.” (Châu lúc ấy đang phụ trách huấn luyện khóa Biệt Hải 1/72. Trong số khóa sinh có Ðại Úy Thọ và K.). Chờ cho tiệc sắp tàn, tao tìm cách gặp riêng Ðại Úy Thọ hỏi và được ông cho biết sơ qua về chuyến công tác cứu phi công Hoa Kỳ. Sẵn đó tao giới thiệu mầy đi có anh có em cho vui. Còn ngày giờ khởi hành tao hoàn toàn không biết. Hơn nữa vì lý do an ninh nên không hỏi.
Nghe xong tôi lặng người giây lát. Tất cả mọi thắc mắc trăn trở từ nãy như được Châu hóa giải. Nghĩ thân tình giữa tôi và Châu từ khi quen biết cho đến hôm nay, bất cứ chuyện buồn chuyện vui hai đứa đều tìm nhau san sẻ khiến tôi hết sức cảm mến và càng quí anh nhiều hơn.
Hai đứa có mặt tại phòng họp Ban Chỉ Huy Trại 9 đúng 12 giờ trưa. Lúc nầy tất cả nhân viên tham dự đều hiện diện đầy đủ ngoại trừ hai thằng tôi tới trễ. Chúng tôi tiến đến trình diện Ðại Úy Thọ xong rồi tìm chỗ ngồi.
Nhìn thấy ông đang đứng trước tấm bảng đen, còn anh em ngồi dưới đều chú tâm lắng nghe thuyết trình công tác và phân chia phận sự của toán thi hành ngày mai. Theo lời toán trưởng chuyến công tác sắp tới thuộc loại xâm nhập đặc biệt: Tìm cách giải thoát cho một số phi công người Mỹ đang lâm nạn trong vùng kiểm soát của địch.
Trong thời gian qua, máy bay Hoa Kỳ thi hành các phi vụ thám thính, một số đã bị phòng không Cộng Sản Bắc Việt bắn rớt thuộc không phận cực Bắc Quảng Trị. Hai phi công đều nhảy dù xuống dưới đất an toàn. Hiện họ đang ẩn trốn trong vùng dọc theo quốc lộ 9 phía Bắc sông Cam Lộ (còn có tên khác là Hiếu Giang), Quảng Trị. Vùng nầy thuộc địch bố trí và kiểm soát chặt chẽ. Hai phi công lẩn trốn dưới đất vẫn tìm cách liên lạc vô tuyến với các máy bay thám thính “L19” trên không vào mỗi đầu giờ. Bởi thế đã có nhiều phi vụ bí mật thả những thùng đồ ăn “Ration C” xuống đất tiếp tế.
Tới đây trưởng toán Thọ nhấn mạnh và nhắc nhở anh em hãy tránh xa mỗi khi trông thấy những thùng “Ration, C”. Lý do trong đó một số đồ hộp đã được cơ quan gài sẵn chất nổ rất ư nguy hiểm. Chỉ riêng phi công mới biết ám số an toàn các loại thực phẩm dành riêng cho họ mà thôi. Mục đích để đề phòng trường hợp các cán binh Cộng Sản tìm cách thu nhặt để sử dụng.
Tiếp đến trưởng toán Thọ đến trước một tấm bản đồ chỉ vào các điểm đóng quân để giúp mọi người nhận định rõ các vị trí đóng quân của hai phía “địch - bạn” trong vùng phạm vi trách nhiệm mà toán sắp tới hoạt động. Hiện trên tiền đồn Lô Cốt đang có một đại đội thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh QLVNCH đóng quân. Vị trí tính từ địa điểm lô cốt của quốc lộ 9 nhìn ngược hướng Tây Bắc Khe Sanh, kể cả hướng Ðông Bắc bên kia sông Cam Lộ xuyên thẳng ra phía Cửa Việt (Duyên đoàn 16 trước đây của Hải Quân QLVNCH nay bỏ ngõ). Chúng tôi nhìn thấy nhiều ngôi sao màu đỏ tô đậm nét mọc lên san sát, biểu tượng các nơi đóng quân các sư đoàn Bắc Việt. Phần kia có các ngôi sao màu xanh lá cây nằm hướng Ðông Nam là dấu hiệu xác định vùng trách nhiệm của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh trấn đóng thì có phần thưa thớt hơn.
Bởi thế một số anh em tỏ ra phân vân khi thấy các vị trí đóng quân trên mặt bản đồ. Tôi liên tưởng lại quãng thời gian Tháng Mười Một năm 1971 trong chuyến công tác giải cứu người lính của đơn vị Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ (người Porto Rico) ở mật khu vùng U Minh Hạ, Cà Mau trước đây (bài Những chuyến công tác cứu tù binh bất thành) càng thêm ưu tư chuyến đi lần này. Lý do cao độ cuộc chiến “Mùa hè đỏ lửa 1972” khác xa rất nhiều. Hơn nữa chuyến công tác U Minh Hạ quân số tham dự khá đông, có tới 21 nhân viên trong đó có 3 cố vấn. Ngược lại lần này vỏn vẹn chỉ 5 nhân viên Biệt Hải cộng cố vấn Tom Norris.
Chuyến này tôi được cấp trên chỉ định làm tiền sát viên dẫn toán đi đầu xâm nhập mục tiêu (mỗi lần xâm nhập đường biển hoặc đường bộ miền Bắc hay miền Nam bổn phận tiền sát phải đi trước dò đường). Chức vụ này đã lắm phen làm tôi hú vía về tính chất hiểm nguy. Những ấn tượng mìn bẫy hoặc có thể làm bia cho địch bắn sẻ cứ ám ảnh tôi như hình với bóng trong mỗi lần công tác.
Thời gian còn phục vụ chung với cố trưởng toán Miễn, thỉnh thoảng gặp nhau ở câu lạc bộ Camp Faye cuối tuần, thừa lúc rượu vào lời ra tôi hay bông đùa: Bộ ông muốn thằng em của ông sớm về bên kia thế giới gặp lại bạn bè hay sao? Nhận thấy nhân sự tiền sát viên đi đầu không hề thay đổi, chẳng những ông không giải quyết mà còn trả lời vắn gọn: - Ð.M. Tao nghĩ số mầy sống lâu hạp với nghiệp tiền sát nên chuyến nào anh em cũng về đầy đủ. Sau nầy trưởng toán Phan Văn đáng cũng thế.
Kể từ đó tật phân bua của tôi tự dưng biến mất trong mỗi lần gặp gỡ lại ông. Rồi tự lòng an ủi: “Mầy phải thi hành theo lệnh” hoặc khi mãn hạn hợp đồng (khế ước) sẽ không ký thêm.
Nhớ lại buổi thuyết trình về chuyến công tác hôm ấy sắp kết thúc chợt nghe trưởng toán Thọ lớn tiếng hỏi : Ai có ý kiến gì nữa không? Mọi người trong phòng nhìn nhau nín thinh, có nghĩa hiện tất cả đã thấu hiểu không còn gì để hỏi nữa. Tiếp đến ông bảo anh em qua bàn bên cạnh ghi lại địa chỉ thân nhân rõ ràng khi cần cấp báo đồng thời chờ lãnh thêm một số quân trang cần thiết cho chuyến công tác ngày mai.
Hành trang gồm có: Hai bộ kaki màu xanh cứt ngựa, loại quân chính quy Bắc Việt thường mặc, hai dây lựu đạn Mini, giày ba ta, flaigun (súng hỏa châu loại lớn hơn cây viết) gồm sáu viên đạn có dây đeo vào cổ, một hay hai bộ còng số 8 và đồ ăn cá nhân C. ration đựng trong bịch Aluminum màu nâu đủ dùng bốn ngày. Ngoại trừ súng cá nhân AK 47 và bốn băng đạn lắp đầy kèm theo áo phao, chân nhái...
Buổi chiều hôm đó mọi người chuẩn bị xong xuôi liếc nhìn đồng hồ đến giờ cơm chiều anh em thuận đường tất cả kéo xuống phòng ăn. Sau buổi cơm trở lại phòng ngủ nằm nghỉ xả hơi, tập trung tinh thần cho sáng ngày mai vì mọi người phải thức dậy sớm.
Hôm sau, ngày thứ hai mùng 9 Tháng Tư năm 1972 lúc 4 giờ 30 sáng, tất cả thành phần tham dự có mặt đầy đủ và sẵn sàng đợi trước sân cờ Bộ Chỉ Huy Trại 9. Hai chiếc máy bay trực thăng do phi hành đoàn người Hoa Kỳ lái không biết từ đâu bay tới có nhiệm vụ bốc toán đáp xuống giữa sân cờ. Ðến phiên mọi người tuần tự nối đuôi leo lên phi cơ ngồi vào vị trí. Tất cả hàng ghế treo toòng teng phía sau lưng hai cây đại liên, cùng lúc hai xạ thủ phi công chia nhau tiến lại chỗ của từng người để kiểm soát dây an toàn trước khi máy bay cất cánh.
Trong số có hai cố vấn Hoa Kỳ là Trung Tá Anderson thuộc cơ quan tiếp cứu (JPRC) của phòng 2 MacSog 80 từ Sài Gòn ra và Ðại Úy Tom Norris UDT SEAL (hiện Norris đang làm cố vấn Biệt Hải) đã có mặt trong máy bay trực thăng.
Về phần nhân viên toán kể cả hành trang cá nhân được chia đều đặt gọn ghẽ trong lòng mỗi chiếc máy bay. Ít phút sau cả hai trực thăng cất cánh bay lên không trung vào lúc năm giờ sáng. Khi máy bay ở trên vị trí cao độ ổn định mọi người cảm thấy se lạnh do cơn gió sáng sớm tinh sương thổi tới. Một phần hai cửa máy bay mở toang để giúp xạ thủ nhìn xuống dưới đất quan sát, trên tay ghìm sẵn cây đại liên sáu nòng sẵn sàng lảy cò.
Trên máy bay lúc nầy có dịp nhìn xuống thấy hình ảnh thân yêu của thành phố Ðà Nẵng về sáng, quê hương thứ hai nơi nuôi tôi lớn khôn. Từ khi rời chốn chôn nhau cắt rốn theo gia đình vào Nam trong đợt di cư chia cắt đất nước năm 1954 đến hôm nay trưởng thành gia nhập Lực Lượng Biệt Hải. Hiện thời đơn vị đóng tại bán đảo Sơn Trà chỉ cách Nhượng Nghĩa làng tôi hơn nửa giờ xe đò, giờ nầy phố phường Ðà thành vẫn chìm giấc ngủ dưới lớp mù sương. Ðó đây loe hoe vài ngọn đèn đường lúc ẩn lúc hiện tỏa ra một thứ ánh sáng vàng nhạt. Khi ngoài chiến trường từng phút từng giây sôi động vẫn có nhiều người âm thầm xông pha trên tuyến đầu quyết giữ gìn bờ cõi chống lại Bắc quân trong số có năm người lính Biệt Hải chúng tôi.
Qua mấy giờ bay hai chiếc trực thăng nhanh chóng bỏ lại Ðà thành sau lưng rồi cánh chim bằng lần lượt băng qua thành phố Huế và tới không phận Quảng Trị lúc 7 giờ 30 sáng. Tại đây, một lần nữa, lợi dụng lúc máy bay lòng vòng chờ lệnh trên cao độ, tôi được dịp tò mò nhìn xuống phía dưới vô tình trông thấy nhiều cảnh tàn phá của chiến tranh hiện ra, tựa như bức tranh “điêu tàn” do người họa sĩ tài danh sáng tác. Chung quanh các làng xã đều tiêu điều xơ xác do trăm ngàn hố bom lớn nhỏ đào xới ngổn ngang đã biến cả vùng đất màu mỡ trước kia nay trở thành nơi hoang phế.
Ðó đây nhiều cụm khói sót lại bốc lên tỏa mùi khét lẹt, phát xuất từ những căn nhà xiêu vẹo còn cháy dở dang bởi những đợt pháo kích qua lại của đôi bên, đủ để biết tình hình hiện ở đây đang chịu áp lực nặng nề của phía Bắc quân. Cùng lúc phi công Hoa Kỳ nhận lệnh từ phía dưới, tuần tự đáp xuống rồi đậu trên khoảng đất trống gần sân cờ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Ðoàn 3 Bộ Binh.
Khi càng của trực thăng chấm đất chúng tôi mang hết dụng cụ, súng đạn liền rời khỏi trực thăng đi vào một góc sân trước mặt Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tìm chỗ ngồi chờ đợi. Riêng Trung Tá Anderson, Ðại Úy Tom Norris và trưởng toán Thọ đi vào phòng hành quân để họp bàn với Bộ Tư lệnh Tiền Phương vùng hỏa tuyến.
Tất cả cảnh tượng vừa trông thấy đã giúp chúng tôi nhanh chóng hình dung được sự hiểm nguy xẩy ra trong những giờ kế tiếp. Tuy lúc nầy bốn chúng tôi đang ngồi sát nhau nhưng mỗi người hình như suy nghĩ khác nhau. Vài anh châm thuốc hút để trấn an tinh thần thói quen mỗi khi đối diện nghịch cảnh. Trước mặt cổng Bộ Chỉ Huy Tiền Phương là quốc lộ I chạy vào phía Nam của thành phố Huế. Bên kia đường hằng trăm lều vải màu trắng của cơ quan Hồng Thập Tự dựng lên san sát có thứ tự. Ðó là nơi chỗ tạm trú của dân tỵ nạn nhiều vùng thôn quê chạy về ẩn tránh.
Suốt thời gian mọi người ngồi ngoài chờ đợi trưởng toán vào họp, bất chợt một cấp chỉ huy đi qua có lẽ vì hiếu kỳ nên ông dừng ngay chỗ chúng tôi rồi hỏi: - Các anh có phải chiêu hồi không? vì quân phục và trang bị của chúng tôi rất giống bộ đội cộng sản). Tất cả đứng dậy chào trả lời không phải. Ông hỏi tiếp: - Thế đơn vị các anh ở đâu ra đây có nhiệm vụ gì?
- Thưa thẩm quyền chúng tôi thuộc Lực Lượng Biệt Hải Sở Phòng Vệ Duyên Hải Nha Kỹ Thuật, tất cả xuất phát từ Ðà Nẵng được lệnh ra đây giải cứu các phi công Hoa Kỳ lâm nạn.
Nghe xong ông lắc đầu tỏ dấu hoài nghi vấn đề giải cứu phi công. Rồi ông cho biết tình hình sơ qua mà các phi công Hoa Kỳ hiện đang gặp phải. Trước đây đã có rất nhiều đơn vị dồn hết nỗ lực tìm cách cứu cấp nhưng mọi việc không thành ngược lại mang nhiều tổn thất. Như để kết thúc câu chuyện tâm tình (vài anh em đến nay vẫn còn nhớ tên “H.” của ông may trên túi áo), ông nói: - Các phi công Hoa Kỳ này cũng giống những người đã chết hiện đang được người sống cố tình nhắc nhở vinh danh, mục đích khích lệ tinh thần người khác sẵn sàng chiến đấu. Chứ thật người chết thì làm sao biết người sống hiện đang làm gì cho họ. Ðồng thời ông cho biết những giờ sắp tới có một chiếc thiết giáp M-113 chạy đến chở các anh ra điểm công tác. Hiện tình hình quanh vùng rất nguy hiểm không thể sử dụng phương tiện trực thăng vì phòng không của chúng dầy đặc.
Trước khi chia tay ông không quên cầu chúc anh em chúng tôi mau sớm thành công được an bình trở về. Cùng lúc chúng tôi trông thấy trưởng toán Thọ và hai cố vấn Hoa Kỳ từ trong phòng hành quân đi ra - lúc đó khoảng 10 giờ sáng - tiến lại chúng tôi cho biết tất cả sẵn sàng lên một chiếc thiết giáp M-113 sắp chạy tới.
Trong thời gian đứng chờ phương tiện, bạn Lê Thanh Tất may mắn gặp được một người bà con tên Dương Ðịnh. Anh nầy cũng học khóa Biệt Hải với tôi trước đây bị rớt vì không qua nổi tuần địa ngục (huấn nhục). Anh đang phục vụ trong đơn vị Kỵ-Binh-Thiết giáp trấn đóng vùng địa đầu Quảng Trị. Trong phút giây ngắn ngủi cả ba chúng tôi không hẹn mà gặp. Ðịnh nhanh nhẹn mở đầu câu chuyện: - Sở dĩ biết được bọn bay sắp sửa ra vùng công tác là nhờ mấy thằng bạn ở M-113. Lát nữa đây chính bọn nó sẽ chở toán Biệt Hải tụi bây ra vùng hoạt động. Nghe đến tên Biệt Hải tao vội tìm tới không ngờ may mắn gặp lại hai thằng mầy.
Rồi không bỏ lỡ câu chuyện, Ðịnh thao thao bất tuyệt về tình hình quanh vùng hết sức sôi động vì áp lực Cộng quân mỗi ngày trở nên nặng nề. Bọn mầy đi chuyến nầy phải hết sức cẩn thận đề phòng.
Nãy giờ tôi đứng lặng thinh lắng nghe lời Ðịnh nói bây giờ mới lên tiếng hỏi lại: - Thế còn mầy ra đây lâu chưa? Ðịnh trả lời vắn tắt: - Từ khi tao rời Biệt Hải rồi gia nhập Thiết Kỵ.
Trước khi bắt tay từ giã hắn quay sang phía Tất bồi thêm: - Ð.M. Không hiểu sau lần nầy tao còn cơ hội gặp lại hai thằng mầy nữa không? Lúc đó ngoài hai đứa tôi còn có Châu cũng đứng cạnh đó.
Câu chuyện trao đổi vắn tắt thế thôi nhưng vô tình đã tác động tâm lý người nghe không ít đặc biệt đối với những người trong cuộc như chúng tôi. Nhưng rồi những ám ảnh ấy vội tan biến khi tiếng động cơ chiếc M-113 đằng xa ầm ĩ chạy tới, mỗi lúc một gần thúc hối mọi người sẵn sàng đứng vào vị thế.
Khoảng mười một giờ trưa tất cả toán được lệnh lên xe và mang vũ khí, hành trang đặt gọn trong lòng của chiếc thiết vận xa. Sau khi hoàn tất, một kỵ binh đứng ngoài vội vàng khóa chặt cửa lại. Cùng lúc tiếng động cơ M-113 nổ rú lên khiến mùi khói dầu bay ra mù mịt. Những vòng xích từ từ chuyển động liên tiếp xoay quanh mâm sắt bấu xuống mặt đường, chiếc thiết kỵ bắt đầu chuyển động qua khỏi cổng Bộ Tư Lệnh Tiền Phương một cách mệt nhọc.
Chặng đường lồi lõm quanh co có nhiều dấu bom để lại chiếc thiết kỵ vẫn độc hành như một chàng hiệp sĩ, băng đồi trượt dốc. Thỉnh thoảng nhả ra nhiều cụm khói như cố lấy sức lao đi. Cuối cùng tới được khu xe đậu phía sau lô cốt tiền đồn lúc bốn giờ chiều .
Chúng tôi lần lượt rời khỏi chiếc M-113. Bất ngờ trước mắt hiện lên một quang cảnh hết sức hãi hùng, còn hơn cả buổi sáng mục kích trông thấy các làng mạc chung quanh Bộ Chỉ Huy Tiền phương ở Quảng Trị. Nơi đây mới thật đúng nghĩa vùng đất đã bị chiến tranh hoàn toàn tàn phá. Xa gần không thấy bóng làng mạc ruộng vườn hoặc người qua lại ngay cả loài thú cũng thế. Ðó đây hàng ngàn hố bom cũ mới chằng chịt đào xới đã biến từng gốc cây ngọn cỏ trở thành khô héo nằm vương vãi khắp nơi.
Trước cảnh tượng tang thương xơ xác miền Trung “đất đào lên sỏi đá”, ngoài thiên tai bão lụt hằng năm thì phần còn lại đều do bàn tay chiến tranh tàn phá đến trơ trụi hẳn. Những người hiện diện dù lạnh lùng chai đá độ nào chăng nữa trong phút giây nầy tâm hồn cũng đành lắng đọng chùng xuống.
Nói về địa điểm tiền đồn, là cái lô cốt của Pháp được kiến trúc theo hình bát giác nằm trên đỉnh đồi xây dựng hết sức kiên cố. Chung quanh lô cốt nhiều lỗ châu mai được trổ giúp cho binh sĩ ở trong có thể chiến đấu hoặc quan sát địa thế ở ngoài một cách dễ dàng. Nghe anh em kể lai lịch cái lô cốt nầy là dấu tích của lính Pháp để lại, sau khi Ðiện Biên Phủ thất trận, họ đều cuốn gói ra đi. Hiện được một đại đội của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh QLVNCH dùng làm tiền đồn án ngữ với mục đích kiểm soát đoạn đường huyết mạch trên quốc lộ 9 từ Lào ngược về Quảng Trị.
Phía dưới chân đồi về hướng Tây Bắc có một cây cầu được bắc ngang trên con rạch nhỏ nối liền hai đầu quốc lộ. Anh em ở đây cho biết công binh phe ta dùng chất nổ TNT giật sập cây cầu nầy mấy ngày trước đó, quyết cản ngăn sức tiến quân từng đoàn xe tăng T54 và T72 của các sư đoàn Bắc Việt hiếu chiến xâm lăng ngày ngày lũ lượt chạy về hướng Nam. Cách đó không xa khoảng mấy trăm thước ở hướng Tây Nam chúng tôi trông thấy sáu, bẩy chiếc T54 và T72, con cháu bác Hồ “sinh Bắc tử Nam” đã bị các đơn vị chúng ta dùng súng cá nhân M.72 bắn cháy. Tất cả biến thành đống sắt bất động ngổn ngang.
Các chiến hữu ngậm ngùi kể lại trên xe có một số xạ thủ Bắc quân bị cấp trên của chúng xiềng chân vào các ổ súng. Lúc các tăng T72 hoặc T54 trúng đạn M.72 của ta bắn bị bốc cháy thì những xạ thủ Bắc quân trên xe không thể nào phá còng thoát ra nên tất cả chết cháy thành than trông rất tội nghiệp. Ðồng thời các anh còn đưa chúng tôi xem một số thư từ sách báo của đảng Cộng Sản và của Hội Bà Mẹ Yêu Nước từ miền Bắc gửi vào có mục đích động viên cán binh tham chiến trong Nam.
Ngoài ra, anh em đã tịch thu một số đồ hộp lương khô trong hầm xe tăng Bắc quân. Sau câu chuyện trao đổi tôi may mắn được một chiến hữu tặng lại cuốn nhật ký của một cán binh bộ đội tử trận mà anh tịch thâu được trong số xe tăng bị cháy. Trong cuốn nhật ký người cán binh bất hạnh có bài thơ đầy công thức nhai lại như sau:
Ta là núi hiên ngang trên biển cả
Dù sóng to gió cả chẳng phai lòng
Khắp mình ta, máu đào đã nhuộm đỏ
Anh em ta có chết một đôi người
Chết đôi người nhưng để được ngày mai
Quyền lợi chết dành lại cho kẻ sống
Thì chết đó có chi đâu là uổng
Dứt đời đi mà vẫn cứ yên long
Không biết trong số xạ thủ bị cấp trên chúng xiềng chân chết cháy trong các xe tăng có tên của nhà thơ vô duyên nầy không? Bởi bản chất hiếu chiến nên chúng đã gây không biết bao nhiêu thảm họa cho cả dân tộc Việt Nam lâm cảnh lầm than và nghèo đói tới tận giờ.
Nói về cấp số của đại đội bộ binh đang đóng chốt tiền đồn có khoảng 80 quân nhân được chỉ huy bởi một trung úy đại đội trưởng gốc Thiếu Sinh Quân thuộc Sư Ðoàn 3 Bộ Binh. Ngoài ra đại đội còn được tăng phái thêm hai xe tăng loại M48 được ngụy trang rất kỹ trong hệ thống phòng thủ chung quanh lô cốt.
Lúc anh em bộ binh trông thấy toán Biệt Hải có cả hai cố vấn Hoa Kỳ đến trong buổi chiều thì hầu hết đều phấn khởi vui mừng vì đã tạm thời giúp đơn vị nhanh chóng xóa tan sự bất lợi trong cảnh chiến đấu đơn độc hiểm nguy. Có lẽ anh em đại đội tiền đồn này đang suy nghĩ về những ngày sắp tới nếu gặp chuyện xảy ra hẳn có những vị cố vấn Hoa Kỳ sẵn sàng gọi máy bay hay pháo binh từ ngoài hạm đội bắn vào yểm trợ một cách dễ dàng.
Qua mươi phút mọi người đứng ngoài trao đổi tình hình quanh vùng, anh em trong đồn vội hối thúc chúng tôi nhanh chóng chuyển tất cả dụng cụ vào trong lô cốt, vì ngại bọn tiền sát pháo binh của chúng trông thấy. Nghe nói hằng ngày vẫn có chúng bám sát quanh đây rình rập “như mèo vờn chuột”. Vài anh cho biết thêm tình hình sinh hoạt trên tiền đồn và những giờ địch quân thường pháo kích tới thường vào sáng sớm vừa thức dậy chui ra khỏi hầm làm vệ sinh cá nhân, buổi trưa nấu ăn và lúc xế chiều. Ngoài ra còn nhiều đợt pháo khác nếu cảm thấy khả nghi hay được bọn tiền sát viên của chúng gọi về...
Khi Ðại Úy Tom Norris thấy các nhân viên toán đã sắp xếp xong xuôi chỗ ăn nơi nghỉ, viên cố vấn liền đề nghị trưởng toán Thọ cho toán Biệt Hải xuất phát ngay. Lúc ấy khoảng năm hoặc sáu giờ chiều. Không hiểu suy nghĩ thế nào mà trưởng toán Thọ xoay qua hội ý với Châu (được Châu thuật lại cho biết), có lẽ nghĩ anh hiện là người thâm niên nhất trong toán và được Châu góp ý hoạt động của Biệt Hải xưa nay chỉ chuyên hoạt động công tác về đêm, thành công hay không tất cả dựa vào yếu tố bất ngờ. Nhìn chung tình hình và lộ trình di chuyển hiện tại xem ra không mấy dễ dàng nhất là đang giữa ban ngày, một điều quan ngại hiện quân Bắc Việt quá đông, ước tính cả mấy sư đoàn chính quy từ Bắc mới vào dựa theo nguồn tin tình báo, chúng đang kiểm soát từ Khe Sanh dọc theo hướng Nam trên quốc lộ 9 và cả những vùng lân cận. Toán Biệt Hải nếu như hành động bây giờ trước sau sẽ bị Bắc quân phát giác nhanh chóng bởi những trạm gác hoặc các điểm đóng chốt của chúng trước khi toán Biệt Hải chưa đến mục tiêu.
Nghe lời giải thích hợp lý của Châu nên trưởng toán Thọ nhanh chóng gạt bỏ ý kiến của Tom Norris đề nghị cho toán khởi hành sớm (các công tác Biệt Hải đều do thẩm quyền của trưởng toán Việt Nam quyết định). Riêng anh em còn lại không có ý kiến gì, mọi người đi tìm ba lô mở lấy đồ ăn, giải quyết bao tử trước khi mặt trời chưa lặn.
Ăn uống xong và kiểm lại lần cuối trang cụ cần thiết dùng mang theo, đặc biệt khẩu AK.47 đẩy cơ bẩm cho đạn lên nòng sẵn rồi khóa chốt an toàn cẩn thận và ai nấy xem đó như lá bùa hộ mạng tối nay.
Ðứng trên lô cốt nhìn về hướng Tây của Khe Sanh ánh nắng bắt đầu mờ nhạt, mặt trời từ từ lặng lẽ tìm nơi ẩn núp sau những mỏm núi nhấp nhô, chuẩn bị nhường chỗ cho màn đêm sắp xuống bao phủ quanh vùng. Buổi chiều mới tới đang khi đứng ngoài trò chuyện với anh em bộ binh có nghe họ nhắc đến tên của địa danh Khe Sanh, nơi nầy hiện chúng đang dùng giam giữ quân nhân của các đơn vị QLVNCH khá đông. Thỉnh thoảng anh em bộ binh trên tiền đồn gặp nhiều nhóm quân của ta đã tìm cách đào thoát trốn về được anh em vui mừng đón tiếp.
Ðúng bẩy giờ tối toán chuẩn bị khởi hành bỗng phía dưới chân đồi cách xa lô cốt hơn một nghìn mét, theo tầm mắt còn trông khá rõ vì thời tiết bắt đầu chuyển sang Mùa Hè, cho dù mặt trời đã lặn nhưng vẫn nhìn thấy nhất là ánh đèn của đoàn xe tăng và xe vận tải của chúng di chuyển không biết cả thảy bao nhiêu đoàn. Tất cả bật đèn sáng trưng từng chiếc từng chiếc nối đuôi chạy tà tà trên quốc lộ 9 tiến thẳng về hướng tiền đồn có toán Biệt Hải chúng tôi tạm trú. Ðiều lạ lùng là hầu như cả đoàn xe Cộng Sản không hề nao núng, lo sợ máy bay của QLVNCH và của Hoa Kỳ từ hạm đội ngoài biển bay vào oanh tạc hoặc pháo binh các nơi bắn tới.
Khi đoàn xe chúng sắp chạy gần đến cây cầu dưới sát chân tiền đồn, đã bị đơn vị công binh phe ta giật sập, lập tức cả đoàn tăng T54 và xe Molotova nhanh chóng chuyển hướng băng ngang nhiều ngọn đồi rồi chạy thọc sâu vào lãnh địa thuộc vòng đai Quảng Trị. Thấy vậy một số anh em lẩm bẩm chửi thề “Mẹ kiếp” vì toán đang chuẩn bị khởi hành đã bị Bắc quân mò đến áp đảo tinh thần.
Qua ngày hôm sau cũng thế lúc hai giờ chiều chúng tôi lại phát hiện từng đoàn Molotova của chúng xuất phát từ hướng Cửa Việt tiếp tục bươn bả chạy vào, băng qua nhiều đồng ruộng bỏ hoang bên kia bờ Bắc sông Hiếu Giang một cách thản nhiên khiến nhiều cát bụi bay lên mịt mờ. Tóm lại trong thời gian toán Biệt Hải có mặt trên lô cốt, hàng ngày đều mục kích trông thấy xe cộ phía bộ đội Bắc Việt xuất hiện liền liền khiến mọi người thắc mắc nghĩ ngợi đặt nhiều câu hỏi. Những giờ phút hiểm nguy thế nầy sao lại không thấy máy bay hay pháo binh bắn tiêu diệt hay làm hư hỏng đoàn xe của chúng? Ðồng thời chúng tôi cảm thông chia sẻ sự âu lo của anh em đại đội bộ binh tại đó phải chiến đấu trong đơn độc. Riêng toán Biệt Hải kể cả những người cố vấn bất quá chỉ chịu đựng mấy ngày của chuyến công tác là cùng.
Với tình thế vô vọng thế nầy làm cho tình hình quân sự quanh vùng mỗi ngày thêm tồi tệ và anh em chỉ biết nhìn nhau chia sẻ ưu tư bằng cách lấy “Basto xanh” hoặc thuốc lá Quân Tiếp Vụ mời cùng hút giải khuây. Cho đến hôm nay dù cuộc chiến đã trôi qua trên ba mươi năm kể từ Tháng Tư năm 1972 nhưng mỗi khi có dịp nghĩ tới chuyến công tác Biệt Hải “Bat- 21” ngày đó, tôi hết lòng cảm phục và biết ơn sự hi sinh cao độ của các chiến hữu trấn đóng tại lô cốt tiền đồn trên vùng tuyến đầu dọc quốc lộ 9 Cam Lộ, (Hiếu Giang) tỉnh Quảng Trị năm nào.
Phải công nhận sự dũng cảm chịu đựng của các chiến hữu Ðại Ðội Sư Ðoàn 3 Bộ Binh dù rằng cấp số trên dưới chỉ 80 anh em so với mấy sư đoàn Bắc quân ngày đêm kéo đến bao vây thị oai hay quấy rối. Nhưng các chiến sĩ QLVNCH vẫn một lòng sắt son cùng nhau quyết tâm ở lại bảo vệ vùng giới tuyến địa đầu miền Nam trong thời kỳ khó khăn và nguy ngập chưa bao giờ thấy.
Những ngày tị nạn ở nước ngoài may mắn đọc được tài liệu công tác “BAT-21” đã giúp tôi hiểu rõ nhiều chi tiết và còn biết thêm tên tuổi những người phi công được toán Biệt Hải giải thoát là đại úy phi công Mark Lack và trung tá phi công Hambleton.
Dưới đây chúng tôi chỉ đề cập những phi công mà toán Biệt Hải trách nhiệm giải cứu thuộc “Bat, 21”
(Tóm tắt một số trong tài liệu sưu tầm của Trần Ðỗ Cẩm)
II, BAT-21 bị bắn hạ
Trưa ngày 2 Tháng Tư, 1972, một phi vụ gồm 3 Pháo Ðài Bay B-52 trên đường tới oanh tạc vị trí địch cách Tây Bắc căn cứ Carroll khoảng 2 cây số. Các Pháo Ðài Bay B-52 đều được trang bị nhiều máy điện tử có thể làm nhiễu loạn làn sóng rada hướng dẫn hỏa tiễn phòng không SAM. Nhưng vì có quá nhiều giàn SAM trong vùng nên trong phi vụ nói trên còn có 2 phi cơ EB-66 điện tử chuyên phá rối rada phòng không hộ tống, danh hiệu truyền tin BAT21 và BAT22. Lúc sửa soạn thả bom, các phi cơ B-52 và EB-66 đều phát hiện đang bị nhiều vị trí rada phòng không địch theo dõi. Ðịch phóng lên 3 hỏa tiễn. BAT-21 bị một hỏa tiễn bắn trúng bụng phi cơ gây tiếng nổ và một quả cầu lửa lớn.
Trên phi cơ BAT-21, Trung Tá Hambleton, danh hiệu truyền tin BAT-21 Brovo, lúc đó đang ngồi trên ghế phi hành viên, phía sau phi công, lập tức bấm nút, ghế của ông bung lên và rời khỏi chiếc máy bay bị nạn. Dù của BAT-21 Bravo từ từ rơi xuống đất, tại vị trí cách cầu Cam Lộ khoảng 2 cây số về hướng Ðông, Ðông Bắc.
VI, phi cơ điều không bị bắn hạ
Sau khi nhận tiếp tế tại Ðà Nẵng, phi cơ điều không Nail-38 lại bay ra Quảng Trị để tiếp tục bao vùng cho Bat-21. Tới vùng Cam lộ, chẳng may khi xuống thấp khoảng 2,000 bộ để dễ quan sát, phi cơ bị trúng hỏa tiễn phòng không địch. Quan sát viên Mark Clark ngồi ở ghế sau lập tức bấm nút đào thoát trước, phi công Henderson theo sau.
Phi công Henderson rơi xuống vùng Bắc sông Miếu Giang, cạnh con lộ chạy theo hướng Ðông-Tây và trốn vào một lùm cây. Quan sát viên Marck Clark rơi xuống bờ Nam, chỉ cách bờ nước chừng dăm thước. Cả hai dùng máy truyền tin cấp cứu báo cáo xuống đất an toàn và chỉ cách vị trí của BAT-21 Bravo khoảng 2 cây số. Toán phi cơ trong vùng tìm đủ cách để tiếp cứu nhưng không thành công. Ðến đêm, Henderson bị địch quân phát hiện và bị bắt. Như vậy, ngoài Hambleton, nay còn có thêm nạn nhân Mark Clark cần cấp cứu
Theo tài liệu viết khi xác định được địa điểm Trung Tá Hambleton ẩn trốn ngày 2 Tháng Tư năm 72 lúc 9 giờ tối không quân Hoa Kỳ đã lập một Vùng Cấm Hỏa Lực (No Fire Zone) quanh nơi phi công Hambleton bị hỏa tiễn SAM bắn rơi với đường kính 27 cây số. Vùng cấm hỏa lực này bao trùm hầu hết các vị trí QLVNCH, đặc biệt là Sư Ðoàn III đang bị địch tấn công. Vì thế các đơn vị QLVNCH không còn được máy bay và pháo binh yểm trợ như thường lệ.
Ðây là cơ hội bằng vàng đã giúp Bắc Việt chuyển quân vào các tỉnh của tuyến đấu lãnh thổ miền Nam một cách nhanh chóng, an toàn và công khai không chút e sợ. Như đã viết ở trên, các điểm đóng quân của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh sau đó không lâu đã bị Cộng quân tràn ngập. Thật khó tưởng tượng chỉ vì sự việc như đã đề cập trong mà phải hi sinh biết bao sinh mệnh của quân dân vùng giới tuyến Quảng Trị lúc đó và cả cả thời gian sau nầy.
Trở lại chuyến công tác. Gần tám giờ tối màn đêm bắt đầu phủ xuống lạnh lùng che kín tất cả cảnh vật chung quanh nhường chỗ cho các sinh vật sở trường sinh hoạt về đêm trong đó có toán Biệt Hải chúng tôi. Tối nay toán áp dụng chiến thuật di hành theo đội hình hàng dọc. Mỗi người theo thứ tự đi cách nhau ba thước mét, trừ tiền sát viên đã được chỉ định lúc ở phòng thuyết trình.
Tiền sát dẫn toán đi đầu gồm tôi, Tất (cách từ tám đến mười mét) rồi tới trưởng toán Thọ và Tom Norris. Còn Châu và K. đi hậu vệ. Riêng Trung Tá Andy Anderson ở tại tiền đồn phụ trách chỉ huy tổng đài, có nhiệm vụ điều hợp, liên lạc giữa ba trục gồm: Toán Biệt Hải trong vùng công tác, thám thính L19 quan sát trên không và các phi công Hoa Kỳ đang ẩn trốn rải rác khắp trong vùng địch.
Toán chúng tôi rời khỏi tiền đồn được một hạ sĩ quan trực hướng dẫn đi băng qua nhiều vòng kẽm gai mìn bẫy phòng thủ của căn cứ. Nhờ buổi chiều mới tới, lợi dụng lúc đứng chuyện trò ngoài lô cốt với anh em đại đội, tôi có dịp nhìn quanh địa thế. Nên giờ nầy tìm lộ trình dẫn toán đi xuống bờ sông Hiếu Giang cảm thấy không mấy khó khăn. Sông Hiếu Giang khoảng cách hai bờ ước chừng 300 hoặc 400 mét. Ban ngày đứng trên tiền đồn phía bờ Nam nhìn sang có thể trông rõ từng gốc cây mọc bên bờ Bắc.
Sông Cam Lộ được chia nhiều nhánh. Ðặc biệt giữa dòng sông có dòng nước chảy rất mạnh tùy theo nhịp độ thủy triều lên xuống. Ðứng dưới mép bờ sông không thể nào nhìn ngược lên hướng trên quốc lộ 9 để ước đoán khoảng cách trừ khi có bản đồ. Hơn nữa ban đêm càng giới hạn tầm nhìn vì nhiều cây cối cao to mọc lên san sát che khuất phía trước. Vào giữa đêm khuya thanh vắng, thỉnh thoảng vẫn nghe rõ tiếng ho hoặc tiếng khua động phát xuất từ những điểm đóng quân các sư đoàn bộ đội Cộng Sản dội lại.
Ðêm nay bầu trời về khuya cảnh vật chung quanh càng trở nên tịch mịch hoang vắng lạ thường. Tiếng côn trùng tỉ tê vọng lại trong đêm, tựa bao oan hồn “sinh Bắc tử Nam” hay những sinh linh vô tội vì chiến tranh thác oan, kể cả người Biệt Hải không may bị bắt đến phút lìa đời, cũng không được nấm mồ trọn vẹn. Do đó anh em trong lòng lén lên dâng lên nỗi buồn thấm thía khi chợt nghĩ đến lưỡi hái tử thần lảng vảng đâu đây?
Miên man suy nghĩ vài anh sơ ý đụng phải gốc cây, vô tình phá sự bình an của vài con chim đang yên giấc trên các nhành cây khiến nguyên đàn kêu oang oác vụt bay tán loạn làm tất cả chúng tôi giật mình, tưởng chừng như bị địch phát giác theo dõi hướng đi của toán. Di hành ban đêm rất kị: ánh sáng, nền trời, mùi hương, tiếng động dễ dàng bị đối phương phát giác. Về đêm bất cứ tiếng động lớn nhỏ đều tạo cảm giác căng thẳng gây nhiều e ngại cho người đi. Tất cả bây giờ chỉ tin tưởng vào giác quan của chính mình giúp lượng định tình hình, kịp phán đoán cấp thời những sự việc xảy ra xung quanh.
Vả lại bộ đội Bắc quân đang đóng cách toán Biệt Hải di chuyển không xa đã làm tiền sát viên phập phồng lo sợ những đều không may bất ngờ xảy đến. Kịp lúc trong trí nảy sinh ý nghĩ giúp tôi nhanh chóng thay đổi lộ trình bằng cách dẫn toán đi xuống dưới mép nước. Lối di chuyển nầy tuy chậm, thỉnh thoảng gặp vũng nước sâu hoặc những nhánh cây mọc đâm thẳng xuống dưới sông cản đường, nhưng tin tưởng không gây tiếng động hoặc để lại dấu vết giúp chúng nắm bắt theo dõi và tương đối an toàn hơn.
Chúng tôi đến được mục tiêu vào khoảng nửa đêm và không biết hiện toán đã vào sâu được bao nhiêu cây số vì tiền sát viên không giữ bản đồ. Anh em nhận lệnh trưởng toán chia thành nhóm nhỏ ẩn nằm dưới các bụi cây tập trung giác quan nghe ngóng các hướng. Trên quốc lộ 9 có các đơn vị địch đóng quân và phía dưới là dòng sông.
Trước giờ khởi hành mọi người nghe trưởng toán cho biết đêm nay khoảng từ mười hai giờ khuya đến ba giờ sáng, một trong hai phi công sẽ rời khỏi chỗ ẩn trốn và tìm cách đi xuống, lội theo dòng sông ra. Trưởng toán lưu ý mọi người chú tâm quan sát một khi phát giác tức thời báo ngay tất cả cùng biết và hành động thật nhanh đón phi công.
Ðêm nay cả vùng Cam Lộ tối đen như đêm 30 Tết. Không gian hết sức tĩnh lặng. Những đọt cây lớn nhỏ đều đứng yên bất động. Bầu trời không một gợn mây. Vài ngôi sao lưa thưa xuất hiện chiếu ánh sáng li ti như đom đóm lạc loài trong đêm, chứng tỏ thời tiết miền Trung sắp sửa bước sang Mùa Hè oi bức càng làm cảnh vật trong vùng cô tịch một cách đáng ngại chỉ trừ hơi thở đều đặn người phụ tiền sát đang nằm kế cận, hòa lẫn tiếng nước róc rách do dòng thủy triều ồ ạt chảy ra hướng Cửa Việt.
Bất chợt phía trên chính giữa dòng sông tôi phát giác một vật đen lờ mờ xuất hiện, bập bềnh theo dòng nước trôi xuống rất nhanh mỗi lúc càng gần. Ít phút sau đã nhìn được hình thể chiều dài của vật đen khá rõ rệt vụt ngang qua chỗ hai đứa. Sở dĩ trông thấy trước vì hai tiền sát đi đầu hiện nằm vị trí phía trong cùng. và nghe tiếng thở phì phào rất rõ như tiếng trâu bò lội dưới nước ban đêm phát xuất từ vật đen. Quá khả nghi, tôi khều Tất ra hiệu hãy bò thật nhanh thông báo cho trưởng toán Thọ biết để ông kịp thời quyết định. Ít phút sau ở đầu kia đã nghe tiếng sột soạt của Tom Norris đang xỏ chân nhái phóng xuống dòng sông lội theo. Khoảng hai mươi phút sau chúng tôi thấy ông lội trở lại vị trí của toán. Có lẽ dòng nước đang đà chảy mạnh xô đẩy vật đen trôi xa làm Tom Norris không tài nào theo kịp.
Tất cả sự việc xảy quá đột ngột khoảng khắc ngắn ngủi nên anh em trong toán chẳng ai kịp hành động. Hơn nữa đây lần đầu tiên toán Biệt Hải được tham dự công tác vớt người kiểu nầy. Dù vậy cả toán vẫn nằm án binh bất động đợi lệnh.
Tuy không nói ra nhưng thâm tâm mọi người nhất là phần tôi vẫn đinh ninh lúc nãy vật đen, có thể là một trong số phi công đã theo dòng nước trôi ra nhưng không may vuột khỏi tầm tay của toán đang bỏ công chờ đợi. Xem như cơ hội hiếm hoi bị mất. Cùng lúc nghe tiếng đối thoại giữa Tom Norris và Trung Tá Anderson trực máy tại tiền đồn lô cốt. Có lẽ hai người hiện đang đề cập những diễn biến bất thường vừa xảy ra.
Từ khi phát hiện vật đen đã ba mươi phút trôi qua, chúng tôi có lệnh rút lui. Liếc nhìn đồng hồ dạ quang điểm chỉ hơn hai giờ sáng. Trên đường rút ra toán vẫn giữ nguyên đội hình di chuyển theo lộ trình lúc khi đi vào. Ðặc biệt lần nầy mọi người hết sức cẩn thận đề phòng nhất là những chỗ nghi ngờ có địch. Ðiều làm mọi người nơm nớp lo sợ là bầu trời quanh vùng tối đen cộng với cây cối dầy đặc, lỡ mà lọt điểm phục kích của địch chắc chắn không một ai có thể sống sót.
Theo nguồn tin đồng bào tị nạn cho biết hiện bộ đội Bắc Việt tung rất nhiều toán, lục kiếm gắt gao tìm bắt các phi công Hoa Kỳ đang ẩn trốn. Phần tôi từ khi phát giác vật đen và nghe tiếng thở phì phào như người, trong đầu ám ảnh và tự hỏi không biết vật đó vật gì phải người hay không? Nên bụi cây nào sắp sửa ngang qua, tôi đều chú tâm quan sát rất kĩ tuy biết niềm hi vọng hết sức mong manh.
Kể từ khi nhận lệnh rút lui khỏi điểm kích đến giờ toán đã di chuyển được hơn một tiếng đồng hồ. Thoạt nhiên đằng trước mặt tôi phát giác một bụi cây đứng một mình riêng rẽ sát dưới mé nước chỉ cách chỗ tôi từ tám đến mười thước. Cả thân cây rung lên nhè nhẹ từng hồi tựa như đang bị gió thổi, khiến mặt nước quanh đó giao động, ngược với những bụi cây kế cận vẫn đứng yên không hề nhúc nhích đã khiến tôi giật mình hoảng sợ. Ðiều lạ lùng hơn nữa hiện thời tiết oi bức, chung quanh không một luồng gió. Với phản xạ tôi ra dấu cho Tất và cả hai vội vàng nằm xuống nấp sau mô đất. Cùng lúc Tất chuyển tín hiệu về sau để mọi người kế tiếp kịp thời dừng lại đề phòng bất trắc.
Trở lại bụi cây bất ngờ đã được phát giác lúc nãy hai đứa tôi nằm im lìm chờ đợi cố để mắt theo dõi động tĩnh. Mười phút trôi qua mang theo âu lo hồi hộp nhưng những bụi cây kế cận vẫn đứng yên bất động. Duy điểm bụi cây phát giác vẫn từng hồi lay động. Thấy vậy tôi kề tai nói khẽ với Tất: - Hãy chú ý theo dõi và yểm trợ nếu cần. Tao bò đến mục tiêu tìm cách xác định vị trí khả nghi, không thể để toán nằm chờ đây mãi vì bầu trời sắp sáng đến nơi.
Cùng lúc tôi xoay nòng súng AK.47 nhắm thẳng hướng mục tiêu, ngón trỏ sẵn sàng lảy cò nếu tình hình ở điểm khả nghi đột biến. Khi khoảng cách hai bên thâu ngắn bỗng thấy cả bụi cây trở nên rung mạnh. Ðồng thời nghe giọng nói yếu ớt từ dưới góc cây vọng ra hai tiếng “No, No” đã giúp tôi mau chóng nhận định không còn nghi ngờ gì nữa, chính đó là viên phi công Hoa Kỳ mà toán chúng tôi đã suốt đêm bất chấp hiểm nguy tìm kiếm. Ông ta đứng ôm chặt gốc cây cách tôi ước khoảng năm mét. Trên đỉnh đầu ông trông lờ mờ hình như đang phủ một miếng vải ngụy trang. Ngược lại người phi công Hoa Kỳ chắc chắn thấy hai đứa tôi và tưởng toán bộ đội cộng sản săn lùng tìm kiếm được ông, cộng thêm đói khát trong thời gian lẩn trốn khiến tinh thần ông sa sút hoảng sợ.
Còn hai tiền sát chúng tôi khi đã xác định chắc chắn mục tiêu, tôi nằm lại tại chỗ quan sát theo dõi vì sợ người phi công hốt hoảng buông gốc cây, lội theo dòng nước biến mất như trước đây hay do bản năng tự vệ dùng súng lục bắn chúng tôi thì hỏng mọi chuyện. Biết thế tôi ra hiệu bảo Tất tìm cách bò nhanh phía sau trình trưởng toán biết gấp sự việc. Mấy phút sau trưởng toán Thọ và Tom Norris, cả hai tiến lên. Tôi chỉ ngay bụi cây nơi viên phi công đang đứng. Khi xác định vị trí Tom Norris bò tới cách người phi công mấy thước nói vọng vào (có thể mật khẩu nhận nhau). Bất ngờ từ trong bụi cây thấy người phi công trườn ra cùng lúc rồi cả hai quỳ xuống ôm lấy nhau, tưởng như đôi bạn xa cách lâu ngày bỗng dưng gặp lại vui mừng khôn xiết.
Trong phút giây nghẹn ngào vui sướng chúng tôi nghe tiếng của người phi công thì thào trong miệng “Thank !Thank !”. Mọi người gần đó hết sức phấn khởi. Suốt mười ngày đêm ông ta đã bị bộ đội cộng sản truy bức đói khát tưởng chừng sớm muộn bị bắt. Không ngờ đêm nay được toán Biệt Hải cứu sống, lại có sự tham dự của Tom Norris là chiến hữu ông. Không niềm vui nào người phi công có thể đem ra so sánh đối với hai chữ Tự Do. Riêng toán Biệt Hải chúng tôi thì đây là phần thưởng tinh thần vô giá và xem như toán đã hoàn thành chuyến công tác đêm đầu càng gây hi vọng chuyến công tác kế tiếp. Trưởng toán vội bảo anh em cấp tốc rời khỏi chỗ này càng sớm càng tốt vì quanh đây còn trong phạm vi đóng quân các sư đoàn Bắc Việt. Tất cả không chần chờ lẹ làng thận trọng di chuyển và hết sức cẩn thận bảo vệ người phi công tới chỗ an toàn.
Ngày 11 Tháng Tư năm 1972 lúc 7 giờ sáng, toán Biệt Hải dìu được người phi công Hoa Kỳ về dưới triền đồi Lô Cốt. Vùng đất nầy tương đối an toàn thuộc quyền kiểm soát đơn vị trấn đóng. Chúng tôi nhìn thấy sức khỏe của người phi công hiện quá bết bát không thể ông tự di chuyển một mình trèo lên dốc đồi nên anh em kẻ trước người sau thay phiên cõng ông trên lưng, nhắm hướng về phía tiền đồn vừa đi vừa chạy vì sợ Cộng Sản trông thấy thì chúng gọi pháo kích.
Khi cả toán đặt chân trên phần đất Lô Cốt ai nấy đều thấm mệt vì suốt đêm qua thức trắng và căng thẳng. Ðơn vị trong đồn mở cổng chạy ra phụ dìu người phi công vào phía trong đồn. Vài nhân viên Biệt Hải nhanh trí lấy những gói cà phê trong các hộp “Ration C” đem khuấy nước nóng đưa mời người phi công Hoa Kỳ uống. Tiếp nhận ly cà phê trên tay mọi người bỗng thấy trên hai khóe mắt của ông đỏ hoe rồi hai dòng lệ lăn dài. Có nằm trong hoàn cảnh nầy mới hiểu thấu được tình chiến hữu đồng đội bất phân chủng tộc hết sức thắm thiết.
Mười giờ sáng cùng ngày một chiếc thiết vận M-113 không biết từ đâu xuất hiện chạy đến đậu sẵn phía sau Lô Cốt, làm phương tiện để chở người phi công Hoa Kỳ trở về hậu cứ. Khi chiếc M-113 và người phi công thật sự rời khỏi Lô Cốt mọi người mở ba lô lấy khẩu phần lương khô “Ration C” ăn uống qua loa. Ai nấy vội tìm chỗ nằm để giấc ngủ lấy sức tiếp tục chuyến công tác tối nay.
Phần tôi sau khi xong xuôi tìm một chỗ phía trong Lô Cốt nằm xuống định ngủ một giấc cho lại sức. Nhưng thời gian kéo dài mấy tiếng đồng hồ nhưng không tài nào chợp mắt được. Tất cả hình ảnh đêm qua vẫn chập chờn hiện về trong tâm trí khiến thân thể trở nên bải hoải mỏi mệt lạ thường. Khoảng 2 giờ 30 chiều bỗng có nhiều tiếng nổ chát chúa khắp quanh vòng đai Lô Cốt. Một vài trái rớt xuống trúng trên miệng hầm nổi hướng nam . Bắc quân đóng bên kia các ngọn đồi pháo tới làm Lô Cốt rung chuyển liên hồi như thể động đất sau mỗi đợt nổ.
Lúc ấy mọi người đang nằm phía trong vội vàng ngồi dậy xách súng đạn nhắm ngay cửa chính của tiền đồn phóng chạy ra ngoài, định nhảy xuống bất cứ căn hầm phòng thủ nào gần nhất để trợ lực cùng anh em bộ binh chiến đấu. Toán Biệt Hải chỉ tạm trú vài ngày nên không có lệnh đào hầm. Mọi người lo ngại Cộng Sản kéo tới ban ngày mở đợt tấn công nhưng chưa kịp thi hành thì thấy mấy người lính bộ binh dìu Trung Tá Andy Anderson và trưởng toán Thọ từ ngoài lật đật đưa vào phía trong Lô Cốt. Thấy vậy chúng tôi đứng lại tìm băng cá nhân buộc vào vết thương để cầm máu cho hai người. Tom Norris mở máy vô tuyến liên lạc về Bộ Chỉ Huy xin phương tiện di tản thương binh .
Theo một số anh em trong đồn cho biết khoảng hai giờ chiều họ trông thấy hai người đứng trên miệng hầm phòng thủ trên tay cầm ống nhòm quan sát địa thế. Có thể bọn quan sát của chúng đã trông thấy nên gọi pháo kích bắn.
Bốn giờ chiều hôm đó một chiếc thiết giáp M-113 khác tiếp tục chạy tới di chuyển thương binh trong số có trưởng toán Biệt Hải. Thể theo đề nghị của Ðại Úy Thọ muốn Châu cùng đi trên chiếc M-113 để giúp săn sóc. Như vậy tối nay toán mất thêm hai nhân viên công tác và Trung Tá Anderson trực máy liên lạc, tất cả ba người. Hiện còn lại bốn người gồm: ba nhân viên Biệt Hải và Tom Norris (UDT Seal). Không ngờ diễn biến xảy ra đột ngột chiều nay làm hoàn toàn thay đổi chương trình công tác như đã dự tính. Riêng tôi cảm thấy phân vân, lo lắng vì hình ảnh các đoàn xe Molotova và T54 - T72 của đối phương ngày đêm di chuyển trong vùng. Chưa kể những trận pháo kích đã phần nào ảnh hưởng về mặt tâm lý.
Tối nay toán còn lại bốn người. Chúng tôi tiếp tục nhận lệnh đi giải cứu Trung Tá Hambleton. Nghe nói ông nầy bị thương khá nặng đang trốn sâu trong vùng địch kiểm soát suốt mười một ngày qua. Sức khỏe ông rất bết bát nên không thể di chuyển. Tối nay toán phải tìm cách đi vào gần nơi của ông đang ẩn trốn và đêm nay Ðại Úy Tom Norris sẽ thay thế Ðại Úy Thọ làm trưởng toán. Nghe tin tôi và Tất làm tiền sát tối nay, cả hai phân vân vấn đề trở ngại ngôn ngữ chẳng may chạm địch trên đường di chuyển không biết liên lạc ra sao?
Ngày 11 Tháng Tư năm 1972, Tom Norris cho toán khởi hành có phần sớm hơn lần trước. Lúc gần 7 giờ tối bầu trời bên ngoài vừa nhá nhem mọi người được lệnh sẵn sàng rời khỏi tiền đồn. Ðội hình di chuyển đêm nay vẫn không thay đổi, số nhân viên chỉ có bốn người :Tiền sát đi đầu là tôi, Tất, đến Tom Norris và K. hậu vệ. Lộ trình di hành từ điểm lô cốt xuống bờ sông đêm nay có phần thay đổi. Vì tránh mìn bẫy nên tôi tìm cách đi lệch cách hướng đường mòn cũ tối qua từ 30 đến 40 mét. Tôi nghĩ biết đâu chúng đã để ý theo dõi sự di chuyển lên xuống tiền đồn của toán và tìm cách lén gài mìn bẫy.
Ðêm nầy cũng như chuyến trước, sau mấy giờ lần theo đường bờ sông di chuyển chúng tôi tới được điểm hẹn vào lúc 11 giờ đêm. Trước khi khởi hành chúng tôi nghe K. chuyển lời Tom Norris cho biết, tối nay phi công Hambleton sẽ theo dòng nước trôi ra tương tự như viên phi công Mark Clack đêm qua. Rút kinh nghiệm của chuyến vừa rồi lần nầy ai nấy đều hết sức cẩn trọng, chú ý nhiều hơn. Từ khi đặt chân tới điểm hẹn nằm lại chờ đợi cho đến giờ này, thời gian gần hai giờ trôi qua nhưng vẫn không thấy Hambleton trôi tới theo dòng nước như đã cho biết, mặc dầu hiện giờ dòng thủy triều đang chảy khá mạnh. Bỗng K. chuyển lời Tom Norris cho biết rằng Hambleton không thể rời xa vị trí ẩn núp vì vết thương ông ta quá nặng đồng thời ra hiệu mọi người rút lui. Cả toán vội theo hướng cũ trở ngược ra. Chúng tôi về đến ngoài vòng đai tiền đồn Lô Cốt gần bốn giờ sáng.
Từ lúc đó tôi và Tất không còn thấy Tom Norris và K. đi ngang cho biết họ sẽ ngược lại bờ sông Hiếu Giang tìm ghe để làm phương tiện, tôi và Tất vẫn ở tiền đồn đợi lệnh.
Ngày 14 Tháng Tư năm 1972 lúc 7 giờ 30 sáng, mọi người hiện diện trên Lô Cốt nghe tiếng gầm thét của rất nhiều máy bay phản lực từ hướng biển bay vào giội bom xối xả và thả khói mù xuống dọc hai bên bờ Hiếu Giang. Khoảng 10 giờ sáng thấy K. từ ngoài hối hả vào gọi chúng tôi xuống bờ sông phụ giúp cõng Trung Tá Hambleton lên. Lúc gặp thấy thân hình tương đối khá cao và gầy, một chân ông bị thương, phần da thịt chung quanh đã nhầy nhụa trở thành màu tím. Lý do thời gian khá lâu thiếu thuốc men chữa trị.
Như đã viết ở trên, từ mé bờ sông ngược lên hướng Lô Cốt đường khá dốc nên ba chúng tôi thay phiên cõng ông trên vai, cố tìm cách nâng hẳn hai chân khỏi mặt đất, tương tự như Mack Clack hôm trước. Khi đặt ông nằm xuống bên trong Lô Cốt, quần áo chúng tôi ướt đẫm, một phần do ánh nắng gay gắt buổi sáng đầu ngày.
Khoảng ba hoặc bốn giờ chiều hôm ấy toán Biệt Hải tất cả bốn người được lệnh rời khỏi tiền đồn bằng chiếc M-113 trở về lại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ở Quảng Trị. Trước khi vào Bộ Tư Lệnh, chúng tôi ngồi chờ phương tiện trở về Ðà Nẵng được một số phóng viên báo chí phỏng vấn, chụp hình... Sau đó gặp một số chiến hữu khác, họ rất ngạc nhiên khi biết toán Biệt Hải thành công. Lý do trước đây mấy ngày chính họ không mấy tin tưởng anh em chúng tôi hoàn thành công tác khó khăn nguy hiểm này.
Từ lúc nhận lệnh thi hành công tác giải cứu các phi công Hoa Kỳ lâm nạn trên sông Hiếu Giang, Cam Lộ theo quốc lộ 9 của tỉnh Quảng Trị giữa Tháng Tư năm 1972, sau Mùa Hè Ðỏ Lửa đến nay thấm thoát thời gian trôi qua đã trên ba mươi năm. Cá nhân tôi cũng như anh em trong toán Biệt Hải tham dự đều không bao giờ nghĩ tới hoặc chú tâm tìm hiểu tên tuổi những phi công Hoa Kỳ mà anh em góp phần tham dự giải cứu. Tự nghĩ đây là nhiệm vụ người lính QLVNCH có bổn phận giúp đỡ người bạn đồng minh Hoa Kỳ đang góp phần để bảo vệ quê hương miền Nam tự do khỏi rơi vào ách thống trị Cộng Sản chẳng may gặp nạn. Hơn nữa nơi đây là tiền đồn “Thế Giới Tự Do” như một số nhân vật tên tuổi Việt và Mỹ từng một thời đề cập.
Mục đích viết bài này muốn nói lên những điều trông thấy, hầu làm sáng tỏ phần nào chuyến công tác bí mật “BAT-21”. Ngoài ra không mang hoài vọng nào khác ngoài hai chữ “âm thầm, phục vụ” được mọi chiến hữu Sở Phòng Vệ Duyên Hải hằng tâm niệm ôm ấp như những ngày còn trong cuộc chiến trước năm 1975.
“Lời cuối chúng tôi xin thay anh em tác giả chân thành cám ơn hai hạm trưởng Nguyễn Mạnh Trí, Trần Ðỗ Cẩm, nhà văn Lê Nhật Thăng, thế hệ II Bùi Thượng Khuê và quí thân hữu sửa chữa, cung cấp hình ảnh giúp cuốn Ðặc San Biệt Hải được hoàn thành trong dịp lễ giỗ kỳ V các anh linh, tử sĩ Biệt Hải, SPVDH/NKT”.
No comments:
Post a Comment